Lời bàn
Nếu là lần đầu bạn đến với blog và bài dịch thuật này, xin hãy dành ít thời gian đọc qua lời bàn nhé!
Cốt lõi của cái đẹp
1991
Hai tuần trước tôi vô tình nghe một kênh phát thanh vô tuyến về nhà thơ người Mỹ William Carlos Williams. Chương trình có tựa đề là “Cốt lõi của cái Đẹp” – The Hard Core of Beauty. Vế câu này va vào sự chú ý của tôi. Tôi thích cái ý tưởng rằng trong cái đẹp tồn tại một căn cơ, và khi tôi suy tư về kiến trúc thì mối tương quan giữa cái đẹp và cái cốt yếu có nét tương đồng nhất định. “Máy móc là thứ không hề có những linh kiện dư thừa,” Williams hẳn đã phát biểu như thế. Và ngay tức thì tôi nghĩ tôi hiểu ý ông ta là gì. Đó là một ý mà Peter Handke ám chỉ, tôi cảm nhận được, khi ông ta nói rằng cái đẹp nằm trong những sinh thể thuận theo tự nhiên mà không mang theo bất cứ dấu hiệu hay thông điệp nào, và khi ông ấy bổ sung rằng ông ta cảm thấy buồn phiền khi ông không thể vén màn - discover, vén-màn – dis-cover, cái ý nghĩa của những sự vật cho chính mình.
Và sau đó tôi biết được từ kênh vô tuyến rằng những bài thơ của William Carlos Williams dựa trên niềm tin tuyệt đối rằng không hề có ý niệm nào ngoại trừ bên trong chính những sự vật, và mục tiêu nghệ thuật của của ông ấy là điều hướng cảm thức của mình hướng đến thế giới của sự vật để biến chúng thành của mình.
Trong những tác phẩm của Williams, người trên kênh vô tuyến đã nói rằng, điều này dường như diễn ra một cách khá vô cảm và gãy gọn, và chính bởi lý do này mà những lời thơ của ông ấy có những tác động lên cảm xúc mạnh mẽ.
Những gì tôi nghe được lôi cuốn tôi: Không mong cầu khuấy động cảm xúc bằng những công trình, tôi tự nghĩ về phần mình, mà cho phép cảm xúc thoát ra, hiện diện. Và: ở gần với chính những sự vật, gần với cái bản chất của sự vật mà tôi phải nhào nặn, quả quyết rằng nếu công trình được hình dung đủ chính xác cho nơi chốn và công năng của nó, nó sẽ phát huy hết thế mạnh của mình, mà không cần những sự thêm thắt biểu lộ tính nghệ thuật nào nữa.
Cốt lõi của cái đẹp: Cái tinh hoa.
Nhưng kiếm đâu ra trường động lực cho kiến trúc để kết tụ cái tinh túy của nó, vượt trên mọi sự nông cạn và tùy tiện?
Italo Calvino kể với ta trong “Lezioni americane” của ông ấy về nhà thơ người Ý Giacomo Leopardi – người đã thưởng thức vẻ đẹp của một tác phẩm nghệ thuật, trong trường hợp của ông ấy là cái đẹp của văn thơ, thông qua sự mơ hồ, phô bày, và vô chừng của nó, bởi chúng bỏ ngỏ cho văn thơ với nhiều ý nghĩa khác biệt.
Lời phát biểu của Leopardi so ra cũng khá thuyết phục. Những tác phẩm hay chủ thể nghệ thuật mà làm lay động ta có nhiều khía cạnh; chúng có vô số và có lẽ không xuể những tầng lớp ý nghĩa trùng trùng điệp điệp, và chúng biến hóa mỗi khi ta thay đổi góc nhìn.
Nhưng làm cách nào để người kiến trúc sư mang đến sự thâm sâu và đa chiều này vào công trình do anh ta tạo nên? Liệu rằng sự mơ hồ và hiển lộ có thể được sắp đặt không? Phải chăng không có sự mâu thuẫn ở đây về sự khẳng định tính chính xác mà lý lẽ của Williams dường như bam hàm?
Calvino tìm thấy một lời giải đáp bất ngờ cho vấn đề này trong một đoạn văn của Leopardi. Calvino chỉ ra rằng trong những đoạn văn của chính Leopardi, kẻ yêu sự mập mờ này phô bày tính chân thật thấu đáo – painstaking fidelity - của những sự vật mà ông miêu tả và đưa ra để chúng ta suy ngẫm, và ông ấy đi đến kết luận rằng: “Vậy là thứ này là thứ mà Leopardi mong cầu ta phải có để ta có thể thưởng thức cái đẹp của sự vô chừng và mơ hồ! Ông ấy kêu gọi tính chính xác tuyệt đối và sự chú tâm đầy mẫu mực vào tổ hợp của mỗi hình ảnh, vào định nghĩa tỉ mỉ của những chi tiết, vào sự chọn lựa những vật thể, ánh sáng và bầu không khí với mục tiêu đạt đến sự mơ hồ mà ta mưu cầu.” Calvino kết luận với một lời tuyên ngôn nghe khá ngược ngạo rằng: “Thứ thơ ca về sự mơ hồ chỉ có thể là thứ thơ ca vô cùng cụ thể!”
Thứ mà tôi hứng thú trong câu chuyện này của Calvino không phải ở sự khích lệ cho tính chính xác và công việc kiên nhẫn, tường tận với những thứ mà tất cả chúng ta đều đã quá quen thuộc, mà ở hàm ý rằng tính phong phú và đa chiều phả ra từ chính những sự vật nếu ta chú tâm quan sát chúng và phó mặc cho chúng. Ứng dụng vào kiến trúc, điều này với tôi có nghĩa rằng sức mạnh và tính đa chiều phải được phát triển từ bài toán được giao phó, hay nói cách khác, từ những thứ thiết lập nên nó.
John Cage từng nói ở một trong những bài diễn thuyết của ông ấy rằng ông ấy không phải là một nhà soạn nhạc nghe được những giai điệu trong đầu và rồi cố gắng ghi chép nó ra. Ông ta có một cách làm việc khác. Ông ấy nghiên cứu những ý tưởng và cấu trúc rồi sau đó biểu diễn chúng để xem chúng nghe như thế nào.
Khi tôi đọc lời phát biểu này tôi nhớ cách mà gần đây chúng tôi phát triển một đồ án nhà tắm nước nóng nằm trong những dãy núi tại văn phòng của tôi, không phải bằng cách dựng nên những hình ảnh sơ bộ của công trình trong tưởng tượng của chúng tôi và sau đó đồng bộ nó vào đề bài thiết kế, mà bằng cách bỏ công sức trả lời những câu hỏi cơ bản trồi lên từ vị trí xây dựng sẵn có, cái mục đích, và những vật liệu của công trình – ngọn núi, đá, nước – Những thứ mà thoạt đầu chẳng có nội dung trực quan nào xét về kiến trúc hiện hữu.
Đó là chỉ khi chúng tôi thành công trả lời được, từng bước một, những câu hỏi đặt ra bởi vị trí xây dựng, mục tiêu và vật liệu thì những cấu trúc và không gian hiện lên làm chúng tôi kinh ngạc và tôi tin rằng chúng sở hữu tiềm năng của một nguồn năng lượng nguyên sơ mà nó sâu sắc hơn sự sắp đặt thuần túy của những hình khối kiểu cách được nghĩ ra sẵn.
Kì trước: PHẦN 1 - “Những bậc thang đã bước qua - Kháng cự”
Kì tới: “Cốt lõi của cái đẹp (1991)” - Trích đoạn 2