Lời bàn
Nếu là lần đầu bạn đến với blog và bài dịch thuật này, xin hãy dành ít thời gian đọc qua lời bàn nhé!
Đắm chìm suy nghĩ vào những quy luật cố hữu của vật chất chẳng hạn như những ngọn núi, hòn đá, và mặt nước trong mối tương quan với bài toán của công trình tạo điều kiện để thấu hiểu và giải bày một vài thuộc tính nguyên sơ và tạm xem như “thanh thuần về mặt văn hóa” – culturally innocent – của những yếu tố này, và khai phóng một thể thức kiến trúc có điểm xuất phát cũng như quay về những thứ thực tế. Những hình ảnh được nghĩ ra sẵn và những xu hướng theo đuổi hình khối đầy phong cách theo kiểu tiền chế chỉ có thể ngăn chặn con đường dẫn tới mục tiêu này.
Những đồng nghiệp người Thụy Sĩ của tôi Herzog và de Meuron phát biểu rằng kiến trúc như là một chỉnh thể không còn tồn tại thời nay nữa, và rằng nó vì vậy mà đã được tạo ra một cách giả lập trong đầu của những nhà thiết kế, như là một cách thức tư duy chuẩn chỉnh. Hai kiến trúc sư này đã từ giả định ấy tách chiết ra nguyên tắc về kiến trúc của riêng họ như một dạng thức của sự suy tư, một thể thức kiến trúc mà, tôi cho rằng, dường như phản ánh tính toàn thể được nhận thức thông qua trí óc theo một cách đặc biệt.
Tôi không có ý định theo đuổi nguyên tắc kiến trúc như là một dạng thức suy tư của những kiến trúc sư này, mà chỉ là cái giả định đã làm cơ sở cho nó, cụ thể là tính chỉnh thể của một công trình theo kiểu suy nghĩ hồi xưa của những bậc thầy xây dựng không còn hiện hữu nữa.
Cá nhân mà nói, tôi vẫn tin vào cái tính toàn vẹn tự duy trì, đầy cụ thể của một đối tượng kiến trúc, nếu khó quá, như là cái mục tiêu cốt lõi trong tác phẩm của tôi, nếu không thì như là một sự thật cố nhiên hoặc rõ ràng.
Tuy vậy ta phải như thế nào mới có thể đạt được tính toàn thể này trong kiến trúc vào thời điểm khi sự thánh thiêng, đấng đã ban phát ý nghĩa cho mọi thứ, và thậm chí thực tại chính nó dường như tan biến vào dòng suối vô tận của những biểu tượng và hình ảnh nhất thời?
Peter Handke viết trong nỗ lực để khiến những đoạn văn và bài tường thuật trở thành một phần của bối cảnh mà chúng liên quan. Nếu tôi hiểu đúng ý ông ấy, thứ đang đối chất tôi ở đây không chỉ là ý thức rằng-mọi-thứ-quá-quen-thuộc về cái khó của việc loại bỏ tính nhân tạo trong những thứ được thành hình thông qua một quy trình nhân tạo và về việc dung hợp chúng vào thế giới bình phàm và tự nhiên, mà còn là niềm tin rằng chân lý thực sự nằm trong chính những sự vật.
Tôi tin rằng nếu các hành trình nghệ thuật truy cầu cho tính toàn thể, chúng luôn sẽ nỗ lực mang đến cho những tạo vật của chúng một sự hiện diện tương đồng với tính chất ấy bên trong những sự vật thuộc về tự nhiên hoặc bên trong môi trường tự nhiên.
Do vậy, tôi nhận thấy rằng tôi có thể hiểu Handke, người mà trong cùng buổi phỏng vấn tự gọi mình là một tay viết về những nơi chốn, khi ông ta yêu cầu những bài viết của mình rằng “không nên có bất cứ sự thêm thắt nào vào chúng nữa, ngoại trừ nhận thức về những chi tiết và về mắt xích của chúng để hợp thành một (…) phức thể chân thực – factual complex.”
Từ ngữ mà Handke sử dụng để biểu thị thứ mà tôi có ở đây được gọi là một phức thể chân thực, cụ thể hơn là “Sachverhalt”, đối với tôi dường như vô cùng ý nghĩa khi xét đến mục tiêu hướng đến những thứ toàn vẹn và thuần chất: Những nội dung chính xác theo sự thật phải được gom lại gần nhau, những công trình phải được xem như những khu phức hợp nơi những chi tiết được nhận dạng một cách đúng đắn và được đặt vào một mối quan hệ xác đáng với nhau. Một mối quan hệ căn cứ trên lẽ phải!
Luận điểm nổi lên ở đây là sự chuyển biến những nội dung thành những thứ có thật. Handke cũng nói, trong ngữ cảnh này, về lòng chung thủy với những sự vật. Ông ấy muốn những bài tường thuật của mình, ông ấy nói rằng, trở nên đầy trải nghiệm bởi sự trung thành với nơi chốn mà chúng miêu tả và không phải bởi sự làm màu phụ họa.
Những phát biểu kiểu này giúp tôi chịu thỏa hiệp với sự bất mãn tôi thường trải qua khi tôi ngắm nghía kiến trúc dạo gần đây. Tôi thường xuyên băng qua những công trình được thiết kế với rất nhiều cố gắng và ý chí tìm tòi một hình khối thật đặc biệt, và tôi nhận ra chúng làm tôi tụt hứng. Người kiến trúc sư chịu trách nhiệm cho công trình không có mặt, nhưng anh ta nói chuyện với tôi không ngớt từ mọi chi tiết, anh ta cứ liên tục nói cùng một thứ, và tôi nhanh chóng mất tập trung. Kiến trúc tốt nên tiếp đón khách tham quan, nên cho phép anh ta trải nghiệm nó và sống trong nó, nhưng nó không nên rao giảng cho anh ta không ngừng nghỉ.
Vì lí nào, tôi hay tự ngẫm, mà những giải pháp rành rành song khó khăn hiếm khi được thử quá vậy? Vì sao ta quá kém tự tin vào những thứ cơ bản cấu thành nên kiến trúc: vật liệu, cấu trúc, thi công, tải và chịu tải, đất và trời, và lại tự tin vào những khoảng không được thừa nhận để trở thành những không gian – những không gian mà những bức tường bao kín và những vật liệu thành phần, độ trũng, trống rỗng, ánh sáng, không khí, mùi hương, thụ cảm và cộng hưởng được chăm chút với rất nhiều vọng ngưỡng và tỉ mẩn?
Cá nhân tôi thích cái ý tưởng thiết kế và xây dựng những ngôi nhà mà tôi có thể rút lui vào cuối giai đoạn thành hình, để lại đằng sau một công trình chỉ là chính nó, để nó trở thành một nơi chốn phục vụ cho nhu cầu ăn ở và là một phần của thế giới thực tại, và nó có thể tự vận hành trơn tru mà chẳng cần những bài thuyết giảng của tôi chút nào.
Với tôi, những công trình có thể chứa đựng một sự lặng thinh tuyệt đẹp khi tôi tương tác với những thuộc tính chẳng hạn sự điềm tĩnh, hiển nhiên, bền bỉ, hiện diện, và liêm chính, và với cả sự nồng ấm và mời gọi nữa; một công trình chỉ là chính nó, chỉ là một công trình, không đại diện cho cái gì cả, chỉ là như vậy.
Tham khảo
1 : olafureliasson.net/artwork/the-mediated-motion-2001/
Kì trước: “Cốt lõi của cái đẹp (1991)” - Trích đoạn 1”
Kì tới: “Cốt lõi của cái đẹp (1991)” - Trích đoạn 3”