Lời bàn
Nếu là lần đầu bạn đến với blog và bài dịch thuật này, xin hãy dành ít thời gian đọc qua lời bàn nhé!
Lẽ thường
Thiết kế là phát minh. Khi tôi vẫn còn trong trường dạy về nghệ thuật và thủ công, chúng tôi bền bỉ theo đuổi nguyên tắc này. Chúng tôi tìm kiếm một giải pháp mới cho mỗi tình huống. Chúng tôi cảm thấy việc tiên phong – avant-garde rất quan trọng. Mãi sau này tôi mới nhận ra rằng cơ bản là rất ít vấn đề kiến trúc chưa được tìm ra một giải pháp phù hợp.
Khi nhìn lại quá khứ, sự giáo dục về thiết kế mà tôi nhận được đâu đó có vẻ đoạn tuyệt với lịch sử - a-historical. Hình mẫu của chúng tôi là những nhà tiên phong và nhà phát minh ra kiến trúc xây dựng theo xu hướng hiện đại mới kiểu Đức - “Das Neue Bauen” 1. Chúng tôi nhìn nhận lịch sử kiến trúc như là một phần kiến thức chung chung, không mấy ảnh hưởng đến công việc của những nhà thiết kế như chúng tôi. Thế nên, chúng tôi thường xuyên phát minh ra những thứ đã từng được phát minh, và chúng tôi xắn tay vào sáng chế những thứ không thể nào sáng thế.
Kiểu đào tạo thiết kế này không thể thiếu đi giá trị giáo dục của nó. Sau này, tuy nhiên, là những người thực hành kiến trúc, chúng tôi vận dụng khá mượt mà nguồn kiến thức và trải nghiệm dồi dào chứa đựng trong chiều dài lịch sử kiến trúc. Tôi tin rằng nếu chúng tôi tích hợp được điều này vào công việc của mình, chúng tôi sẽ có một cơ hội xán lạn hơn trong việc tạo nên những giá trị thực sự cho những gì chúng tôi làm.
Kiến trúc, mặt khác, không phải một quá trình tuyến tính dễ bề dẫn giải từ lịch sử kiến trúc đến những công trình mới toanh một cách khoa học và trực tiếp dẫu nhiều hay ít. Trong hành trình truy tìm thứ kiến trúc mà tôi suy tưởng, tôi thường xuyên trải nghiệm những khoảng khắc mà sự trống rỗng trở nên ngột ngạt. Tôi chẳng thể nghĩ đến bất kì thứ gì thỏa mãn cái tôi muốn chứ đừng nói đến suy tưởng. Vào những lúc như thế, tôi gắng sức rũ bỏ mớ hiểu biết hàn lâm về kiến trúc mà tôi đã lãnh hội được vì bất chợt chúng đang ghì chặt tôi lại. Cách này có hiệu quả. Tôi nhận thấy rằng tôi có thể hít thở thoải mái trở lại. Tôi đánh hơi được một xúc cảm xưa cũ quen thuộc của những nhà thiết kế hay những người tiên phong. Thiết kế đã trở thành phát minh thêm một lần nữa.
Hình hài của tác phẩm kiến trúc được mang đến bởi cái hành động mang tính sáng tạo – cái đã lách thoát khỏi mọi kiến thức lịch sử và kĩ thuật. Tâm điểm của nó đang trong tư thế đối thoại với những nan đề thuộc về thời đại của ta. Tại khoảnh khắc nó chào đời, kiến trúc đã ràng buộc với thực tại một cách đặt biệt. Nó phản ánh khí phách của những nhà phát minh và tự trả lời những trăn trở của thời cuộc thông qua hình khối chức năng và hình dáng của nó, mối quan hệ của nó với những công trình kiến trúc khác và với nơi chốn mà nó thuộc về.
Các câu trả lời mà tôi có thể giải đáp như một kiến trúc sư cho những nghi vấn này tương đối giới hạn. Số lần ta chỉnh sửa và biến đổi không cho phép những động thái to lớn. Chỉ còn vài giá trị thông thường còn sót lại để mà ta xây dựng và ta đều nắm bắt. Tôi do vậy mà kêu gọi một thể thức kiến trúc tuân theo lẽ thường dựa trên những điều căn bản mà chúng ta vẫn biết, vẫn hiểu, và vẫn cảm nhận được. Tôi cẩn thận quan sát dáng vẻ hữu hình của thế giới này, và bên trong những công trình của tôi thì tôi cố gắng đề cao những thứ quý giá, sửa chữa những thứ gây phiền toái, và tạo tác một lần nữa thứ mà chúng ta cảm thấy đang thiếu vắng.
Cảm quan sầu muộn
Bộ phim “Le bal” của Ettore Scola thuật lại nửa thế kỷ lịch sử Âu Châu với không một cuộc đối thoại nào và một tổng thể hoàn chỉnh của nơi chốn. Nó chỉ bao gồm âm nhạc và chuyển động của con người khi di chuyển và nhảy múa. Chúng ta ở yên trong cùng một căn phòng với cùng những con người xuyên suốt, trong khi thời gian thoi đưa và những vũ công già đi.
Phim tập trung vào những nhân vật chính. Nhưng chính phòng khiêu vũ với sàn gạch và tường ốp, cầu thang trong hậu cảnh và móng vuốt sư tử một bên góc máy đã mang đến bầu không khí cô đặc và mạnh mẽ. Hay là ngược lại? Phải chăng là bởi những diễn viên đã nhuộm căn phòng với một tâm trạng cụ thể?
Tôi đặt ra câu hỏi này vì tôi bị thuyết phục bởi quan điểm rằng một công trình gọi là tốt thì nhất định phải có khả năng thấm nhuần những nếp sống của con người và vì thế gánh vác một sự phong phú rất cụ thể.
Một cách tự nhiên, trong ngữ cảnh này tôi nghĩ đến lớp rỉ sét trên vật liệu, nghĩ đến hàng vạn vết xước li ti trên những bề mặt, đến lớp vẹt-ni đã xỉn màu và dễ bong tróc, và những góc cạnh nhẵn bóng do được sử dụng. Nhưng khi tôi nhắm nghiền mắt và cố quên đi cả những dấu vết vật lý này và sự liên tưởng sơ bộ của riêng tôi, những gì còn lại là một ấn tượng khác biệt, một cảm giác sâu sắc hơn – một ý thức về thời gian trôi qua và một nhận thức về những mảnh đời được biểu lộ ở những nơi chốn và căn phòng ấy cũng như từ trong chúng tỏa ra một ánh hào quang đặc biệt. Vào những khoảnh khắc như thế, những giá trị thẩm mỹ và thực dụng về kiến trúc, phong cách và ý nghĩa lịch sử trở nên thứ yếu. Điều đáng lưu tâm lúc này chỉ có xúc cảm về sự sầu muộn vời vợi này. Kiến trúc được phô bày trước nhân sinh. Nếu bản thân nó đủ nhạy cảm, nó có thể trở thành một chứng nhân cho cái hiện thực của đời sống dĩ vãng.
Tham khảo
1 : newprairiepress.org/cgi/viewcontent.cgi?article=1218&context=oz
2 : Tạp chí Kiến trúc và Đô thị A+U (1998), “Connecting Corridor at Art Museum Chur”, Peter Zumthor, ấn bản mở rộng tháng hai 1998, lưu trữ tại đại học Coimbra, ISBN4-900211-50-8 C3052, trang 92.
Kì trước: “Khao khát - Sáng tác trong không gian”
Kì tới: “Những bậc thang đã bước qua - Kháng cự”
Dạ cho em hỏi là chỗ ghi chú (2) dưới hình cầu gỗ, là anh dịch từ nguồn hay anh tự nhận xét ạ?