Lời bàn
Nếu là lần đầu bạn đến với blog và bài dịch thuật này, xin hãy dành ít thời gian đọc qua lời bàn nhé!
Bảo rằng sắc thái nguyên sơ, những gam màu đỏ mận,
Những vàng hồng, cam trắng, rành rành sao nhầm lẫn
Với bất cứ gì dưới ánh dương nơi gian phòng.
Rành rành sao nhầm lẫn để lấp dời bằng ẩn dụ,
Quá thực, những thứ đã đang hiện hữu thực thụ
Khiến mọi hình dung về chúng nhòa phai.
Đây là đoạn mở đầu của bài thơ “Đóa hồng trong ánh dương” 1 bởi kẻ viết lách trong nỗi trầm tư thinh lặng người Hoa Kỳ, Wallace Stevens.
Wallace Stevens, tôi đọc trong phần giới thiệu về bộ sưu tập thi ca của ông ấy rằng, ông ấy chấp nhận sự thử thách để nhìn lâu, ngắm kĩ và vén-màn cũng như thấu hiểu mọi thứ. Thơ của ông ấy chẳng hề phản kháng hay phê bình những phép tắc lề lối xưa, chẳng hề giải bày bất cứ vẻ bàng hoàng nào, nhưng chúng truy cầu một sự hài hòa mà nó luôn ở đó bất kể thế nào và nó – trong trường hợp của ông ta – chỉ có thể là sự hài hòa trong thơ. (Calvino bước một bước xa hơn theo tuyến suy nghĩ này trong nỗ lực định hình tác phẩm văn học của ông ta khi ông nói rằng ông chỉ có một lời biện hộ trước sự mất mát của những hình thái mà ông nhìn thấy quanh mình: một ý niệm văn chương.)
Stevens thiết tha tìm cái thực tại. Chủ nghĩa siêu thực, dường như, chẳng làm ông ấy ấn tượng, bởi nó phát minh mà chẳng có sự khám phá. Ông ta chỉ ra rằng việc phác họa nên một con sò đang chơi đàn xếp là phát minh, chẳng phải phát hiện. Và nó lại ngoi lên một lần nữa, cái ý nghĩ căn bản mà có vẻ tôi tìm thấy ở cả Williams và Handke, và cái mà tôi cũng cảm nhận được trong những bức tranh của Edward Hopper: Chỉ có lưng chừng giữa thực tại của vạn vật và trí tưởng tượng là nơi đốm lửa của những tác phẩm nghệ thuật bùng cháy.
Nếu tôi phiên giải nhận định này vào phạm vi kiến trúc, tôi tự bảo mình rằng cái đốm lửa của những công trình xem như thành công chỉ có thể bùng phát giữa thực tại của những thứ đi đôi với nó và khả năng tưởng tượng. Và điều này không mặc khải cho tôi điều gì, ngoài củng cố cho thứ mà tôi bền bỉ đấu tranh trong những tác phẩm của mình, và thừa nhận một điều ước dường như bén rễ sâu trong lòng tôi.
Song hãy quay về với câu hỏi này một lần cuối cùng: Tôi phải kiếm tìm cái thực tại ở nơi nao để mà tôi buộc phải tập trung hết thảy sức tưởng tượng của mình vào đó khi ra sức thiết kế nên một công trình cho một địa điểm và mục đích xác định?
Chìa khóa cho câu trả lời nằm trong, tôi tin rằng, chính những từ “địa điểm” và “mục đích”.
Trong một bài tham luận với tựa đề “ Xây Ở Suy Tư” – Building Dwelling Thinking, Martin Heidegger đã viết rằng: “Sống giữa vạn vật là nguyên tắc cơ bản cho sự tồn tại của loài người,” điều mà tôi hiểu nghĩa rằng chúng ta chẳng hề sống trong một thế giới trừu tượng mà luôn trong thế giới vật chất, kể cả khi ta suy nghĩ. Và, một lần nữa Heidegger lại bảo: “Mối quan hệ giữa con người và những nơi chốn và thông qua nơi chốn đến các không gian được dựa trên sự ở - dwelling của anh ta ở trong chúng.”
Cái khái niệm sự ở, được hiểu trong cảm quan sâu rộng của Heidegger về sinh sống và suy tư trong những nơi chốn và không gian, chứa đựng một hình mẫu tham khảo chính xác về việc thực tại có nghĩa lý gì với tôi dưới cương vị của một kiến trúc sư.
Chẳng phải tính chân thực của những lý thuyết được tách rời khỏi mọi vật, mà tính chân thực trong cái yêu cầu cụ thể của công trình liên quan đến hành vi hoặc trạng thái của sự ở làm tôi chú ý và khiến tôi muốn tập trung tất cả những năng lực tưởng tượng của mình. Đó là tính chân thực trong những vật liệu của công trình – đá, vải, thép, da… - và tính chân thực của những kết cấu mà tôi dùng để kiến tạo nên công trình có những tính chất mà tôi muốn nhuộm chúng bằng sự tưởng tượng của mình, tận dụng ý nghĩa và vẻ khiêu gợi để đốm lửa của một công trình thành công có thể bùng cháy, một công trình có thể trở thành một mái ấm cho con người.
Tính chân thực trong kiến trúc là cái cơ thể vật chất mà ở trong đó những hình khối, khối tích và không gian sinh trưởng. Chẳng hề có ý niệm nào ngoài trong chính những sự vật.
Tạm kết phần 2 - Cốt lõi của cái đẹp
(Lời của người dịch)
Tôi nhớ đến một nan đề triết học được biết đến là Nghịch lý Con Tàu của Theseus. Câu chuyện kể rằng Theseus có một con tàu mang tên chính mình, ông dùng nó trong cuộc hải trình từ đảo Crete đến Athens. Sau một trận chiến lớn, con tàu nằm lại bến cảng. Theo thời gian, những tấm ván bắt đầu mục nát và hư hại, người ta thay thế chúng bằng những tấm ván mới. Đến một thời điểm, người ta đã thay thế toàn bộ ván mới cho con tàu; họ lại lắp ráp những tấm ván cũ lại thành một con tàu khác hoàn chỉnh. Như vậy, con tàu nào mới là tàu của Theseus?
Ngày nay cái đẹp trong kiến trúc cũng trở nên vô cùng tranh cãi như chính con tàu của Theseus. Dường như càng nhiều công trình kiến trúc theo đuổi những hình khối, không gian “đẹp”, phủ lên mình những ý nghĩa cao siêu, những mặc niệm cao cả trước khi tìm kiếm cái bản chất tận cùng của sự vật, ta càng khó trả lời rằng một công trình có thực sự “đẹp” hay không.
Tôi nhớ có một công trình của một kiến trúc sư danh giá. Công trình ấy đạt được rất nhiều sự công nhận cũng như vài giải thưởng ưu tú. Một ngày nọ, tôi vô tình xem được một đoạn ghi hình, trong đó những người chủ nhà đang tỉ mẩn dùng băng keo dán những viền cửa lại, vì những cơn mưa bão theo mùa có thể tràn vào bên trong công trình. Khi đó tôi phân vân rằng có chăng một sự đánh đổi đầy xác đáng để đạt được một không gian “đẹp”?
“…một công trình chỉ là chính nó, chỉ là một công trình, không đại diện cho cái gì cả, chỉ là như vậy.”
Peter Zumthor dường như chối bỏ sự theo đuổi “cái đẹp” bắt đầu từ hình thức, không gian kiến trúc. Thay vào đó, có vẻ “cái đẹp” thực sự nằm trong bản chất của sự vật khi đã thanh thuần khỏi văn hóa, ngự trị ở cốt lõi của thế giới vật chất, ẩn mình vào lưng chừng những yêu cầu cụ thể của công trình, tại nơi chốn nó thành hình, ở mục tiêu nó tồn tại. Ông bắt đầu chương này bằng truy vấn về cái đẹp, song kết luận sau cùng lại quay về bản nguyên của sự vật, rằng chẳng có ý niệm nào ngoài trong chính những sự vật!
Tham khảo
Kì trước: “Cốt lõi của cái đẹp (1991)” - Trích đoạn 2”
Kì tới: PHẦN 3 - Niềm say mê dành cho những sự vật đến chính những sự vật - “Nơi chốn”
Mình từng đọc đâu đó 1 ý thú vị thế này,
Công trình được tạo nên bởi không gian chức năng phù hợp cho người sử dụng tại thời điểm đó.
Nhưng cái giữ nó tồn tại lâu dài, khiến người đời sau muốn tham quan, lại là hình dạng độc đáo hay các chi tiết trang trí đặc sắc (thậm chí phù phiếm), của nó. Trong khi các chức năng cũ đã không còn hữu dụng hoặc bị thay thế.