Dạy Kiến trúc, học Kiến trúc
1996
Giới trẻ bước vào ngưỡng cửa đại học với mục tiêu trở thành những kiến trúc sư, hoặc để khám phá xem họ có tố chất hay không. Điều gì là tiên quyết mà chúng ta nên dạy họ?
Trước nhất, ta phải giải thích rằng người đang đứng trước họ không phải là kẻ đặt ra những câu hỏi mà anh ta đã biết thừa đáp án. Việc thực hành kiến trúc nghĩa là tự đặt nghi vấn cho mình, tự tìm lời giải riêng mình với sự giúp đỡ của người giáo viên, gọt đẽo, đề ra phương án. Lặp đi lặp lại.
Sức mạnh của một thiết kế tốt nằm trong chính chúng ta và trong khả năng mà ta nhận thức thế giới bằng cả cái lí lẫn cái tình. Một thiết kế kiến trúc tốt mang tính gợi. Một thiết kế kiến trúc tốt phải thông minh.
Chúng ta đều có trải nghiệm về kiến trúc trước cả khi ta biết cái thuật ngữ ấy. Cội rễ của vốn hiểu biết về kiến trúc ăn sâu vào trải nghiệm kiến trúc trong ta: căn phòng của mình, căn nhà của mình, con đường mình đi, ngôi làng mình ở, thị trấn mình sống, cảnh quan chung quanh – ta trải nghiệm tất thảy chúng từ rất sớm, vô thức, và rồi ta so sánh chúng với nơi đồng quê, chốn thị thành và cảnh nhà cửa mà sau này ta sẽ trải nghiệm đến. Cội rễ của vốn hiểu biết kiến trúc ăn sâu vào thuở thơ ấu của ta, vào thời niên thiếu từng trải; chúng ăn sâu vào thân thế của ta. Sinh viên phải học cách làm việc thật tỉnh táo với những kinh nghiệm cá nhân về kiến trúc trong quãng đời của mình. Những bài tập mà các em được giao phó nhằm thúc đẩy tiến trình này.
Ta có thể tự vấn rằng điều gì khiến ta thích căn nhà này, thị trấn nọ, điều gì ấn tượng và lay động ta – và vì sao. Gian phòng trông thế nào, hình vuông, nó thực sự trông thế nào, mùi hương gì lan tỏa trong không khí, tiếng nhịp bước nghe như thế nào trong đó, và giọng nói của tôi nữa, mặt sàn gây cảm giác gì dưới chân, tay nắm cửa trong lòng bàn tay, ánh sáng va vào những mặt đứng ra sao, quầng sáng trên những bức tường trông thế nào? Ở đó có cảm giác chật hẹp hay thoáng rộng, thân mật hay mênh mang?
Những bộ sàn gỗ như lớp màng mỏng. Những khối đá nặng nề, những thước vải mềm mại, đá hoa cương bóng loáng, da thuộc mềm dẻo, thép thô, gỗ Nhạc Ngựa (Mahogany) nhẵn bóng, thủy tinh trong suốt, nhựa đường mềm chảy được sưởi ấm bởi mặt trời... những vật liệu của các kiến trúc sư, những vật liệu của chúng ta. Ta biết chúng tường tận. Song ta chẳng hiểu chúng. Để thiết kế, để sáng chế ra kiến trúc, ta buộc phải học cách xử lí chúng với sự hiểu-biết. Đây là việc nghiên cứu tìm tòi; đây là công cuộc ghi nhớ.
Kiến trúc luôn là mệnh đề cụ thể. Kiến trúc không trừu tượng, mà cụ thể. Một mặt bằng, một đồ án vẽ trên giấy không phải là kiến trúc mà chỉ đơn thuần là một đại diện ít nhiều khập khiễng cho kiến trúc, tựa như bản nhạc vậy. Âm nhạc cần được biểu diễn. Kiến trúc cần được tiến hành. Sau đó hình hài của nó mới ló dạng. Và cái hình hài này luôn gợi mở.
Tất cả những công tác thiết kế bắt nguồn từ tiền đề của cái sức gợi hữu hình, đầy khách quan này cho kiến trúc, cho những vật liệu làm nên nó. Để trải nghiệm kiến trúc một cách thực tế tức phải chạm, nhìn, nghe và ngửi nó. Khám phá và thực hành một cách lý trí với những đặc tính này – đây là chủ đề trong việc dạy học của ta.
Tất cả những công tác thiết kế trong văn phòng được chốt hạ với những vật liệu. Nó luôn hướng thẳng vào những thứ cụ thể, những vật thể, phương cách lắp đặt làm từ những vật liệu có thực (đất sét, đá, đồng, thép, nỉ, vải vóc, gỗ, vữa, gạch,...). Chẳng có mô hình giấy bìa nào ở đây cả. Mà thực ra, không có “mô hình” nào theo lẽ hiểu thường tình, mà là những vật thể thực sự, những tạo tác ba-chiều trên một tỉ lệ xác định.
Bản vẽ tỷ lệ của những mặt bằng cũng có khởi điểm từ những thứ cụ thể, do vậy đã đảo ngược thứ tự của “ý tưởng – mặt bằng – vật thể thực” vốn là cách thực hành tiêu chuẩn trong giới kiến trúc chuyên nghiệp. Trước tiên những vật thể thực sự được thi công; sau đó chúng được vẽ lại theo tỉ lệ.
Chúng ta mang theo bên mình những hình ảnh về các công trình kiến trúc mà ta chịu ảnh hưởng. Chúng ta có thể tái-lập1 những hình ảnh này trong nhãn quan của tâm trí ta và tái-khảo2 chúng. Nhưng việc này chưa dẫn đến một thiết kế mới, kiến trúc mới. Mỗi thiết kế cần những hình ảnh mới. Những hình ảnh “cũ” trong ta chỉ có thể giúp ta đi tìm những cái mới.
Việc suy tư bằng hình dung khi thiết kế luôn luôn hướng đến cái toàn thể. Tự bản chất của nó, hình dung luôn là toàn bộ cái thực tại được tưởng tượng ra: tường và sàn, trần và vật liệu, khí sắc của ánh sáng và màu sắc của một căn phòng chẳng hạn. Và ta cũng nhìn thấy mọi chi tiết của sự chuyển tiếp từ sàn lên tường và từ tường đến cửa sổ, như thể ta đang xem phim vậy.
Tuy nhiên thông thường, chúng - những yếu tố thị giác của hình ảnh, không đơn giản có sẵn ở đó, khi ta bắt đầu một thiết kế và cố tình nhào nặn một hình ảnh cho vật thể ta mong muốn. Ở đầu giai đoạn thiết kế, hình ảnh thường không hoàn thiện. Thế nên ta thử tới thử lui để móc mối và vạch rõ chủ đề ta muốn, để thêm thắt những mảnh ghép còn thiếu vào hình dung của mình. Hoặc giả, để sắp đặt nó theo cách khác: ta thiết kế. Tính cụ thể, gợi mở của những hình dung bên trong hỗ trợ chúng ta việc đó. Nó giúp ta không lạc lối trong những giả thiết khô khan, mơ hồ; nó giúp ta không mất dấu những phẩm chất cụ thể của kiến trúc. Nó giúp ta tránh phải lòng với sự làm màu trong những bản vẽ của mình và nhập nhằng nó với tính kiến trúc thực thụ.
Mường tượng ra những hình dung là một quá trình cố nhiên hẳn thông thuộc với nhiều người. Đó là một phần của suy tư. Liên tưởng, hoang dại, tự tại, suy nghĩ bằng những hình dung một cách trật tự và bài bản, bằng những hình dung mang tính kiến trúc, không gian, muôn màu và gợi mở– Đây là định nghĩa mà tôi yêu thích về thiết kế.
Tham khảo
1 : re-invoke (từ gốc bản Anh Ngữ)
2: re-examine (từ gốc bản Anh Ngữ)
Kì trước: Cơ thể của kiến trúc - Câu chuyện 11-15
Kì tới: PHẦN 6 - “Cái đẹp có hình hài không? (1996)” - Mục 1-7