Sự áp chế tuyệt đối của Thần Linh
Câu chuyện về Ánh Sáng và những cuộc đài thọ Kiến Trúc duy tâm
Lời tựa
Ta nhận ra một căn phòng tối khi nó thiếu đi ánh sáng.
Ánh sáng là sự sống. Là lẽ thường tình, là vẻ đẹp sống động và rạng rỡ như giấc chiêm bao đương giữa ban ngày. Ánh sáng, là sự dìu dắt.
Con người là sinh thể mộ điệu ánh sáng đến điên cuồng và tuyệt đối. Từ buổi bình minh của nền văn minh nhân loại, con người đã kính sợ ánh sáng. Nỗi sợ ấy trải qua biết bao nhiêu thăng trầm thời đoạn, dường như đã vơi đi ít nhiều, khi con người biết tự tạo ra ánh sáng cho riêng mình. Tuy vậy, trong thâm tâm con người chưa bao giờ xem ánh sáng là một thứ hiển nhiên và tầm thường. Trong những ngóc ngách tối tăm tận cùng, con người dường như luôn hướng về phía có ánh sáng dẫu chẳng biết nơi đó là thực hay mộng. Trong những giây phút yếu lòng nhất, con người bám víu vào niềm tin thần bí, ánh sáng chính là sứ giả đưa họ đến với đức tin cao cả. Sự hiện diện của ánh sáng hóa ra lại là thức củng cố lòng tin của con người.
Điểm mấu chốt này khiến ánh sáng trở thành nền tảng và tiêu điểm của thể loại kiến trúc duy tâm. Mỗi một hệ tư tưởng khác nhau có những thủ thuật sử dụng ánh sáng đặc trưng, vô cùng độc đáo và thú vị, khiến cho giá trị thẩm mỹ của công trình trở nên thiên biến vạn hóa, từ đó tác động đến các tín đồ và “nỗi sợ” ánh sáng sâu thẳm của họ theo nhiều cách riêng biệt. Đây là cơ sở cho chuỗi bài viết, trong đó tập trung bàn luận về ánh sáng trong công cuộc đài thọ kiến trúc duy tâm đạt đến ngưỡng đức tin tuyệt đối và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong giới tín đồ, bằng cách thể hiện trực tiếp của ánh sáng - tự nhiên và nhân tạo, trên phương diện thẩm mỹ nội - ngoại thất.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2020
Minh Đăng.
“Kiến trúc hiện diện lần đầu tiên khi ánh sáng mặt trời chạm đến bức tường. Ánh sáng ấy không biết chính nó là gì trước khi chạm đến bức tường”
/ Louis Kahn / Khi luận bàn về bản chất của Kiến Trúc /
(Architecture appears for the first time when the sunlight hits a wall. The sunlight did not know what it was before it hit a wall)
Chủ đề thứ-nhứt
Sự áp chế tuyệt đối của Thần Linh
Trong văn hóa tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại, mặt trời ban phát sự sống, sự sung túc trong trồng trọt, vì vậy mà họ cung kính thờ Mặt Trời dưới hình dạng thần Ra - thần mặt trời đại diện cho ánh sáng ấm áp và sự tăng trưởng. Các Pharaoh trong các thời kỳ mà nhất là Vương triều đệ-ngũ đã sùng bái thần Ra đến mức suy tôn ngài thành đấng duy linh tối cao, vua của các vị thần và là cha của các Pharaoh. Họ cho xây dựng hàng loạt các công trình biểu tượng nhằm bày tỏ lòng tôn kính từ Kim tự tháp, Bút tháp (Obelisk) và các Nhật đền (Sun temples), tiêu hao rất nhiều sức lực, vật lực và thậm chí là cả nhân mạng.
Vì những nỗ lực ấy mà Kim tự tháp của người Ai Cập cổ đại trở thành kỳ quan cổ đại duy nhất còn sót lại cho đến ngày nay. Những bí ẩn trong việc xây dựng nên một đại công trình như vậy đã gây nên rất nhiều tranh luận và vẫn chưa có giả thuyết nào được chính thức thừa nhận. Kim tự tháp không những thành công trong việc được xây dựng trở thành một đại kết cấu đá đồ sộ và choáng ngợp, nó còn thể hiện trí tuệ phi phàm của người Ai Cập thời ấy khi đối chứng với những dữ liệu khoa học trong thời kì hiện đại. Chẳng hạn như tọa độ chính xác của đại kim tự tháp ở Giza là 29.9792458°N, con số này, trùng hợp thay, cũng chính là tốc độ chuyển động của Photon ánh sáng: 299,792,458(m/s).
Ở các vương triều đệ-nhứt đến đệ-tam, kim tự tháp tồn tại dưới dạng các Mastaba – cấu trúc đá hình thang cân giựt tầng về phía đỉnh. Hình thức ấy thay đổi thành các tam giác cân hình chữ Kim - 金 từ các vương triều trở về sau, bởi người Ai Cập cho rằng đây là hình dạng của gò đất nguyên thủy mà từ đó Địa Cầu đã hình thành; đồng thời cũng là biểu tượng của tia nắng mặt trời do ảnh hưởng của sự sùng bái thần Ra. Ban đầu mặt ngoài của các kim tự tháp được ốp một lớp đá vôi trắng đã đánh bóng và có độ tương phản cao. Cách sử dụng vật liệu này khiến cho kim tự tháp trông như một lăng kính khổng lồ phản chiếu ánh sáng mặt trời, trở thành một công trình lộng lẫy và rực rỡ khi nhìn từ xa. Quần thể kim tự tháp là nơi an nghỉ thiêng liêng của các Pharaoh và các hoàng thân, vì vậy việc sử dụng đá vôi trắng sáng bóng khiến công trình trở nên uy nghi và phô trương quyền lực giữa sa mạc rộng lớn. Từ hiệu ứng thị giác này mà các kim tự tháp thường được đặt tên với ý nghĩa tỏa ra ánh sáng mặt trời – solar luminescence, ví dụ như tên gốc của kim tự tháp Bent ở Dahshur là Kim tự tháp phía Nam ngời sáng, hoặc kim tự tháp của Senworset ở el-Lahun với tên gọi là Senworset đang tỏa sáng. Tiếc rằng ngày nay chúng ta không thể nhìn thấy nét vĩ đại này nữa, vì chiến tranh, những cuộc khai phá và các cơn bão cát đã phá hủy phần lớn lớp đá vôi này.
Ánh sáng mặt trời, mặt khác, đóng vai trò thiết yếu trong việc tổ chức tiền nội-ngoại thất công trình, trong giai đoạn định vị phương – chiều – trục cho công trình. Glen Dash, một kỹ sư làm việc tại quần thể khảo cổ ở Ai Cập đã ghi trong Nhật ký Kiến trúc Ai Cập cổ đại rằng đại kim tự tháp gần như được căn chỉnh tương đối chính xác theo hướng Đông – Tây – Nam – Bắc, với “một sự chính xác đến dưới 4’ trên một cung, hoặc dưới 1/15 của một độ”. Sự chính xác này được giả thuyết rằng người Ai Cập cổ đại đã tính theo quỹ đạo của mặt trời. Ngày thu phân có độ dài ngày và đêm tương đương nhau, vì vậy trên lý thuyết, bóng đổ tạo ra từ ánh sáng mặt trời lúc bình minh đến hoàng hôn sẽ tạo ra một cung (arc) giao với một đường tròn có tâm trùng với tâm của cung tại hai điểm. Khi hai điểm này được nối lại sẽ trở thành một đoạn thẳng cùng phương với trục Đông – Tây và tự đó thiết lập trục định vị công trình (1).
Có vẻ nếu sự tham chiếu quỹ đạo chuyển động mặt trời của người Ai Cập cổ đại là thật, một mặt tôn vinh thần Ra tối cao, một mặt khiến quần thể kim tự tháp đón ánh sáng mặt trời một cách chủ động và có dụng ý, từ đó gợi tính tôn nghiêm và thần bí cho quần thể. Một thủ pháp sử dụng ánh sáng tự nhiên khác của người Ai Cập thể hiện trong các đền đài, đặt biệt là các Sảnh đa cột – Hypostyle hall. Cách thể hiện ánh sáng tại đây là minh chứng khá cụ thể cho sự áp chế tuyệt đối của thần linh lên các cư dân Ai Cập cổ đại. Các sảnh đa cột là không gian nội thất của công trình điện thờ, nơi gồm rất nhiều hàng cột cùng đỡ hệ mái. Cách tổ chức này khiến không gian rộng lớn mà không cần dùng đến các cung vòm, tuy vô cùng ngột ngạt và tù túng. Trên bố cục mặt bằng của các điện thờ Ai Cập cổ đại, sảnh đa cột thường là lớp không gian thứ hai tính từ lối vào chính của công trình, sau một đại tiền sảnh.
Bằng cách bố trí mặt bằng này, cùng với các kích thước vĩ mô so với chiều kích con người, không gian khiến con người cảm thấy lạc lõng, lo sợ khi bước vào vì càng đi vào sâu trong khánh thờ, không gian càng u tịch, càng bí bách; những hàng cột và bóng đổ của chúng sẽ tạo thành trùng trùng điệp điệp các lớp không gian tựa như một khu rừng choáng ngợp. Sự tiết chế tối đa ánh sáng vào công trình khiến cho khu rừng ấy mang một vẻ hoang liêu, thần bí, linh thiêng kích thích sự sợ hãi của con người, khiến cho họ hoàn toàn chịu khuất phục trước thần linh.
Hơn nữa, người Ai Cập khiến cho ánh sáng tác động đến nỗi sợ của con người một cách triệt để. Họ khiến những tín đồ cảm thấy nhỏ bé và chịu áp chế trước sự uy nghiêm của sảnh đa cột và càng bước sâu vào điện thờ, không gian thu hẹp dần, trần nhà mỗi lúc một thấp, tường dày và rất ít lối cho ánh sáng từ ngoài đi vào. Điều đó có nghĩa là ở các gian trong cùng dường như hoàn toàn không tồn tại ánh sáng tự nhiên, người ta chỉ có thể ngày đêm thắp ngọn đuốc bập bùng để phát sáng. Sự choáng ngợp dần biến thành nỗi bức bối đầy ngột ngạt nhưng linh thiêng: Ánh sáng bập bùng từ những ngọn đuốc đại diện cho quyền năng của thần thánh. Dường như một không gian hẹp, sâu và tối khiến cho bất cứ ánh sáng nào cũng đều là ân điển và sự soi chiếu của thần linh.
Quy tắc điều khiển và kìm hãm ánh sáng này cũng có thể nhìn thấy trong các đền Bà La Môn của Ấn Độ. Kiến Trúc đền đài Ấn Độ, về cơ bản, được xây dựng bằng gạch và đá, cùng với hệ mái mô phỏng núi Mê-ru vô cùng hoành tráng khiến cho các bức tường chịu lực rất dày, âu cửa hẹp. Vì vậy các ngôi đền thường đón ít ánh sáng. Một điểm khác biệt độc đáo trong việc sử dụng ánh sáng so với các đền ở Ai Cập xuất phát từ quan niệm về thế giới thần linh của hai nền văn minh này. Nếu ở Ai Cập, các vị thần có những vai trò khác nhau nhưng vẫn cùng chung một thế giới, đó là thế giới thần linh thì ở Ấn Độ, họ cho rằng các vị thần ngự trị tại đại thiên thế giới - chính là ngọn núi Mê-ru trong đó chứa rất nhiều tiểu thiên thế giới, là cõi ngự trị của những vị thần với đẳng cấp khác nhau. Ý niệm này phản ánh lên kiến trúc đền thờ Bà La Môn tại miền Nam Ấn Độ khi những ngôi đền dường như là sự mô phỏng lại vũ trụ, nơi cũng là một đại thế giới bao trùm nhiều tiểu thế giới, hay còn gọi là các tầng trời khác.
Rảo bước dọc theo hành lang của ngôi đền Romanathanswamy linh thiêng, ta dễ dàng nhận thấy những khoảng không gian được giới hạn bởi các thức cột được chiếu sáng chan hòa mà xen kẽ vào đó là một hành lang nhỏ chìm trong bóng tối. Mặt khác giữa phần bóng đổ của những chiếc cột là những bề mặt khuếch tán ánh sáng từ phía trên cao. Bản giao hưởng ánh sáng ấy gây cho người nhìn có cảm giác rằng trước mặt họ là nhiều thế giới khác nhau, đan xen và hòa quyện nhưng vẫn rất tách bạch và rõ ràng. Ánh sáng trong đền thờ thường là ánh sáng khúc xạ và khuếch tán làm tăng vẻ kì ảo và mộng mị cho công trình.
Điều thú vị nằm ở chỗ dù cho sáng là ân điển của thần linh, thường những gian thờ của đền luôn ẩn nấp sâu trong bóng tối, thường được thắp đèn dầu và rất ít ánh sáng tự nhiên có thể lọt vào. Đối ngược lại với những gian thờ là không gian dành cho tín đồ, không gian thực tại lại chan hòa ánh sáng. Sân trong của đền Ramanathan đón một luồng trực sáng rất mạnh và sắc, tương phản hoàn toàn với cách chuyển độ từ tốn trong các không gian linh thiêng hơn như một cách nhấn mạnh thế giới đại diện cho không gian sân trong này – trần gian. “Nghịch lý” này cũng có thể nhìn thấy trong kiến trúc đền thờ Ai Cập. Phải chăng ánh sáng tiết chế, khúc chiết lại có một sức mạnh vô hình, thần bí, linh thiêng và đậm đà cảm giác chiêm nghiệm? Điểm này được ứng dụng rất rộng rãi trong các thể loại kiến trúc hiện đại ngày nay như một nét chấm phá đặc sắc và độc đáo, cân bằng cho công trình. Trong ngôn ngữ của nghệ thuật thiết kế chiếu sáng đương đại, nhà thiết kế người Mỹ Richard Kelly đã đặt tên cho hình thái ánh sáng này là “Focal Glow”, tức chỉ trạng thái điều hướng ánh sáng tập trung vào một chủ thể, từ đó thể hiện vị thế và vai trò đặc thù của chủ thể được chiếu sáng.
Cách sử dụng ánh sáng của các cư dân Ai Cập và Ấn Độ ngày trước phản ánh vô cùng chân thực cách họ tôn thờ và sùng bái tín ngưỡng bản địa. Hai nền văn minh này đã hình thành từ những năm ba-ngàn trước Công Nguyên, nhưng những nền văn hóa tồn tại song hành trong thời kỳ này như văn minh tiền Hy Lạp, văn minh Lưỡng Hà hay văn minh sông Hoàng Hà không có tục sùng bái thần linh một cách sâu sắc đến vậy. Người Hy Lạp cổ sử dụng hình ảnh của chính mình làm hình mẫu phác thảo nên các vị thần, vì vậy mà những vị thần cũng biết hỷ - nộ – ái - ố, tham – sân – si; người Lưỡng Hà quan niệm sống nay chết mai, tôn thờ quyền lực, sức mạnh, xa rời sự thần bí viển vông, tin vào thuật chiêm tinh. Cái gọi là sự áp chế của thần linh, hóa ra, là nỗi sợ do con người tự hù dọa chính mình, và ánh sáng là công cụ đài thọ nỗi sợ đó đến tuyệt đối và biến nó thành lòng khuất phục trước sự thần bí và linh thiêng.
Chú giải
(1) : Giả thuyết của Glen Dash và thí nghiệm của ông (ngày 22/9/2016) để chứng minh cách người Ai Cập định vị trục công trình.
Tài liệu tham khảo
(Cho loạt bài “Câu chuyện về Ánh Sáng và những cuộc đài thọ Kiến Trúc duy tâm”)
*****
TIẾNG VIỆT
Việt Hà, Nguyễn Ngọc Giả (1998), Quang Học Kiến Trúc, nxb. Xây Dựng.
Lê Hữu Phước (2010), “Buddhist Architecture”, Grafikol, tr. 170–248, ISBN 9780984404308.
ThS. KTS. Vũ Ngọc Anh (2015), “KIẾN TRÚC THÁP TRONG NGÔI CHÙA MIỀN BẮC VIỆT NAM”, Tạp chí Khoa học công nghệ Xây dựng, Trường Đại học Xây dựng, No. 26 (11-2015).
Đinh Hằng (2018), “Bức tượng Phật “khổng lồ” được KTS Tadao Ando thiết kế bao phủ bằng hoa oải hương tại đền Planted Hill, tạp chí Kiến Trúc, truy cập ngày 14/6/2020.
*****
TIẾNG ANH
Sameer Kumar (2018), “Light in religious architecture: Contemporary trends”, Light in Architecture: Interventions & Invention.
Flora Philips (2016), “The Power to Enlighten: the symbolic power of light in art & religion”, the Bubble, truy cập ngày 5/6/2020.
Giulio Magli (2018), “The Beautiful Face of Ra: The Role of Sunlight in the Architecture of Ancient Egypt”, The Oxford Handbook of Light in Archaeology.
Alexander Russ (2014), “Louis Kahn - Master of Light”, Lichtmeister column in collaboration with BAUMEISTER magazine.
Bob Borson (2016), “Natural Light – Clean Aesthetics”, Life of an Architect, truy cập ngày 7/6/2020.
Ramón Esteve (2018), “Architectural Objects that Evoke Natural Light”, Archiproducts.
Gerard Rice (2002), “Review: The religion of light”, The Furrow, Vol. 53, No. 11, tr. 633-636, The Furrow.
Percy Brown (1990), Indian Architecture.
Satish Grover (1980), “Buddhist and Hindu Period”, The Architecture of India.
Wei-cheng Lin (2017), “Performing Center in a Vertical Rise: Multilevel Pagodas in China’s Middle Period”, Ars Orientalis, Vol. 46.
Joan Duncan Oliver (2019), “Architecture of Awakening”, Tricycle – the Buddhist review, truy cập ngày 13/6/2020.
Paul Keskeys, “Designs for the Dead: Exploring the Architectural Challenges of Mortality”, Architizer, truy cập ngày 17/6/2020.
Kate Springer (2016), “Architecture of the afterlife: This is how you design for the dead”, CNN Style, truy cập ngày 17/6/2020.
Furumori Koichi architectural design studio (2014), “Myoenji Columbarium”, Archdaily, ISSN 0719-8884, truy cập ngày 19/6/2020.
HofmanDujardin (2018), “Funeral Ceremony Centre”, HofmanDujardin (website), truy cập ngày 20/6/2020.
Riccardo Bianchini (2018), “Steilneset Memorial – Vardø, Norway | Peter Zumthor & Louise Bourgeois”, Inexhibit, truy cập ngày 21/6/2020.
Amy Frearson (2012), “Steilneset Memorial by Peter Zumthor and Louise Bourgeois”, Dezeen, truy cập ngày 21/6/2020.
"Ý niệm này phản ánh lên kiến trúc đền thờ của *Ai Cập* khi những ngôi đền dường như là sự mô phỏng lại vũ trụ, nơi cũng là một đại thế giới bao trùm nhiều tiểu thế giới, hay còn gọi là các tầng trời khác."
Nhầm Ấn Độ thành Ai cập thì phải.